Các phiên bản North_American_F-82_Twin_Mustang

NA-123Thiết kế phát triển căn bản. Thiết kế NA-123 được giới thiệu bởi North American Aircraft cho Không lực Lục quân Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1944. Là kiểu thiết kế một máy bay tiêm kích tầm xa xâm nhập sâu vào lãnh thổ đối phương. Vai trò trước mắt là để hộ tống các máy bay ném bom B-29 Superfortress sử dụng tại Mặt trận Thái Bình Dương chống lại Nhật Bản. Không lực Mỹ lập tức tán thành. Một hợp đồng chế tạo và thử nghiệm bốn chiếc máy bay thử nghiệm XP-82 (đặt tên là P-82) được đưa ra cùng tháng, mở đường cho việc đặt hàng 500 máy bay.XP-82 / XP-82AChiếc nguyên mẫu. Không lực Mỹ chấp nhận chiếc nguyên mẫu XP-82 đầu tiên vào tháng 8 năm 1945 và chiếc thứ hai vào tháng 9. Cả hai được trang bị động cơ Packard Merlin V-1650-23 và -25. Chiếc máy bay thử nghiệm thứ ba, đặt tên XP-82A, có hai động cơ Allison V-1710-119. Nó được chấp nhận vào tháng 10 năm 1945. Không có bằng chứng nào cho thấy chiếc XP-82A đã từng thực sự bay được vì những vấn đề với kiểu động cơ Allison. Chiếc nguyên mẫu XP-82A thứ tư (số hiệu 44-83889) bị hủy bỏ.

Trong giai đoạn đầu, người ta dự đoán là một khi chiến tranh chấm dứt, hãng Packard Motor Car Company sẽ không tiếp tục sản xuất kiểu động cơ V-1650 Merlin. Thêm vào đó, nền kinh tế Anh bị thiệt hại trầm trọng và hãng Rolls Royce buộc phải thu một khoản lệ phí giấy phép nhượng quyền đáng kể trên kiểu động cơ Merlin do Packard sản xuất. Sự gia tăng này, cùng với ý muốn của Không lực phát triển một kiểu động cơ làm mát bằng nước do Mỹ thiết kế, đã đưa đến quyết định chuyển sang sử dụng động cơ Allison. Hậu quả là, động cơ V-1710-119 được dành cho chiếc nguyên mẫu thứ ba và thứ tư. Tất cả những chiếc F-82 được sản xuất còn lại đều được trang bị động cơ Allison.P-82BPhiên bản dự định sản xuất. Với sự kết thúc của Thế Chiến II, kế hoạch sản xuất được cắt giảm đáng kể. Đối với kế hoạch 500 chiếc P-82B dự định ban đầu, một quyết định vào ngày 7 tháng 12 năm 1945 cắt giảm còn 270 chiếc P-82, bao gồm 20 chiếc P-82B đã đặt hàng và sau này chuyển làm máy bay thử nghiệm đặt tên là P-82Z. Không lực Mỹ chấp nhận mọi chiếc P-82Z vào năm tài chính 1947. Những chiếc P-82B về căn bản tương tự như chiếc XP-82, nhưng được trang bị thêm các đế dưới cánh.Chiếc P-82C số hiệu 44-65169 sơn màu đen đặc trưng máy bay tiêm kích bay đêm. Lưu ý chỗ lồi to mang radar dưới cánh.P-82CPhiên bản máy bay tiêm kích bay đêm. Một chiếc P-82B, (số hiệu 44-65169) được cải tiến vào cuối năm 1946, để thử nghiệm làm máy bay tiêm kích bay đêm. Chiếc P-82C được trang bị một cụm thân mới (bên dưới phần cánh giữa) chứa radar SCR-720. Đây là kiểu radar cũng được trang bị cho chiếc Northrop P-61 Black Widow, một kiểu máy bay tương đối to hơn có những vấn đề về khoảng sáng hoạt động đối với cánh quạt của động cơ. Buồng lái bên phải trở thành vị trí của người điều khiển radar.P-82DPhiên bản máy bay tiêm kích bay đêm. Một chiếc P-82B khác (số hiệu 44-65170) được cải tiến với một kiểu radar khác, APS-4. Kiểu APS-4 nhỏ hơn nhiều so với SCR-720, và hoạt động ở dãi tần ba centi-mét. Giống như chiếc P-82C, buồng lái bên phải cũng là vị trí của người điều khiển radar.P-82EPhiên bản máy bay tiêm kích hộ tống. Chiếc F-82E tiếp nối F-82B, và khá giống nhau. Nó được trang bị hai động cơ kiểu Allison làm mát bằng nước, V-1710-143 và V-1710-145, có cánh quạt xoay ngược chiều nhau. Bốn chiếc F-82E đầu tiên được đặt tên lại là F-82A và được sử dụng để thử nghiệm động cơ. Sau khi vệc sản xuất bị trì hoãn vì những vấn đề của động cơ và thử nghiệm bổ sung, F-82E được đưa vào hoạt động từ tháng 5 năm 1948. Những chiếc F-82E được Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược cho nghỉ hưu bắt đầu từ tháng 3 năm 1950.Máy bay tiêm kích bay đêm North American F-82F Twin Mustang số hiệu 46-415P-82F/G/HPhiên bản máy bay tiêm kích bay đêm. Một cụm thân mới bên dưới phần cánh giữa chứa thiết bị radar (kiểu ANIAPG28 trên chiếc F-82F và kiểu SCR-720C18 trên chiếc F-82G); hệ thống lái tự động; và một sĩ quan điều khiển radar thay cho phi công thứ hai. Khi các thiết bị hàn đới hóa được trang bị cho các phiên bản F hay G, nó trở thành phiên bản F-82H. Nó được đưa vào hoạt động từ tháng 9 năm 1948, việc giao hàng tiến hành từ tháng 2 năm 1948 đến tháng 3 năm 1949. Đến giữa năm 1950, các đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Không quân Phòng không bắt đầu thay thế F-82 bằng kiểu F-94, và đến đầu năm 1951, vài chiếc Twin-Mustang còn lại trong Bộ chỉ huy Không quân Phòng không trở thành mục tiêu giả lập được kéo theo. Những chiếc F-82 được rútra khỏi chiến đấu tại Chiến tranh Triều Tiên vào tháng 2 năm 1952 nán lại lâu hơn trong phục vụ. Sau tháng 6 năm 1953, không còn chiếc F-82 nào phục vụ trong Không quân, Không lực Vệ binh Quốc gia hay Không quân Trừ bị Hoa Kỳ.